Logo Galaxy Header flex-none

Tải ứng dụng galaxy Cinema

Tra cứu lịch chiếu và đặt vé siêu nhanh

Trang chủ / Blog điện ảnh / Ký Sự Điện Ảnh - Kỳ 8: Khán Giả Dễ Dãi Và Chất Lượng Phim Việt

Ký Sự Điện Ảnh - Kỳ 8: Khán Giả Dễ Dãi Và Chất Lượng Phim Việt

Xem phim là để giải trí, kịch bản hay mà diễn viên tệ thì cũng thua. Mà lỡ diễn xuất tốt nhưng nội dung phim dở thì cũng vứt. Đây chỉ là nhận định mang tính tổng quan. Khi phân tích sâu vào một tác phẩm, sẽ luôn có nhiều luồng ý kiến khác nhau. Phần đông nhận xét sẽ đến từ quan điểm cá nhân, cảm nhận theo suy nghĩ riêng. Thế nên có thể cuốn phim nọ là tuyệt phẩm với người này nhưng lại là rác phẩm với người kia. Sự phân chia như thế phần nào nằm ở cách mà con người tiếp cận điện ảnh.

Khán giả cũng có thể là đại diện cho số đông. Sẽ có hàng trăm hàng ngàn nhóm với đa dạng tư duy khi xem phim. Để phân biệt dễ nhất, có thể chia họ thành: yêu thích xem phim và đam mê điện ảnh.

Yêu thích xem phim thì hiển nhiên “phim ảnh” sẽ luôn đứng hàng ưu tiên mỗi khi nhắc đến sở thích. Xung quanh luôn tồn tại ai đó thích xem phim, họ dành cuối tuần để đến rạp chiếu phim, về đến nhà lại tiếp tục nghiền ngẫm mớ series nào đấy. Những “con nghiện” phim sẽ xem rất nhiều, đôi khi là đa dạng về thể loại hoặc chỉ giới hạn trong vài chủ đề nào đấy. Họ tích lũy kiến thức vừa đủ để có thể bình phẩm và nhận định về một tác phẩm.

Đối với người đam mê điện ảnh thì việc xem phim lại tựa như chủ đề học thuật nghiêm túc. Đặc điểm hình dung dễ nhất chính là ngoài việc nhận xét về nội dung tác phẩm, họ còn đánh giá về góc máy, kỹ thuật cắt – dựng, diễn xuất, thông điệp ngầm, có khi là đưa ra góc nhìn độc đáo về nội dung câu chuyện dựa trên các gợi ý của đạo diễn. Việc vừa xem phim, vừa phân tích và tranh luận về các chủ nghĩa trào lưu điện ảnh cũng là yếu tố nhận diện nhóm đam mê điện ảnh.

Trên thế giới, cái “gu” của khán giả có sự chuyển biến liên tục là việc vô cùng bình thường. Không khó để lấy làm lạ khi thỉnh thoảng xem lại phim cũ, sẽ có vài cái lắc đầu bởi tình tiết quá cực đoan hoặc diễn xuất quá cường điệu. Tuy nhiên đấy là những gì người xem thích thú ở thời điểm ấy. Theo thời gian, nhà làm phim khởi đầu xu hướng để dẫn dắt đối tượng mà họ hướng đến. Thay vì những tác phẩm hài hước gây cười nhàm chán, hoặc các mô tuýp tâm lý quen thuộc, giờ đây việc xem phim cần sự tư duy cao hơn. Có thể đạo diễn thông qua bộ phim mà truyền tải rất nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau. Hoặc có khi đơn giản rằng họ làm ra một tác phẩm chỉ để thỏa mãn cái tôi nghệ thuật, không cần ai phải hiểu, tạo nên cuộc tranh luận suốt nhiều năm về đoạn kết hay chi tiết nào đấy.

Các quốc gia có nền điện ảnh phát triển luôn tồn tại những đạo diễn dám mạnh dạn thử sức với cái mới, giới thiệu cho công chúng nhiều khái niệm độc đáo, câu chuyện phi tuyến tính, ẩn dụ nhiều tầng thách thức giới hạn về đạo đức –lẫn tôn giáo. Khán giả cũng nhẫn nại với việc tiếp cận một bộ phim “lạ lùng’, việc tán dương hoặc chê bai không hẳn liên quan đến chất lượng. Đôi khi cần mất nhiều năm để tác phẩm được nhìn nhận đúng giá trị của nó.

Tại Việt Nam, phần lớn các phim chiếu rạp đều mang tính thương mại. Dòng phim thị trường không kén người xem, doanh thu đạt được luôn ở mức khả quan (ngoại trừ những tác phẩm được xếp hạng “thảm họa”).

Điện ảnh nước nhà vẫn cho ra đời các tựa phim hàn lâm có giá trị nghệ thuật cao. Thậm chí còn đoạt giải ở các Liên hoan phim quốc tế. Thế nhưng khi ra mắt tại nội địa, không hiếm bắt gặp các lời bình như: “Nghe nói phim hay, phim có giải nên coi cho biết chứ thấy bình thường”, “Phim coi không hiểu”…, hoặc quen tai hơn là “Làm phim kiểu này ở đây dân ít khi đi xem lắm”.

Thực trạng trên từng dấy lên cuộc tranh cãi về trình độ xem phim của khán giả Việt. Liệu có phải “gu” của người Việt quá dễ, thế nên mới có chuyện chấp nhận cả những bộ phim “không dở mà cũng chẳng hay”. Thoải mái cho qua với những “hạt sạn” về diễn xuất hoặc lỗ hổng trong kịch bản.

Người đạo diễn mong muốn đem đến những giá trị nghệ thuật cho tất cả chiêm ngưỡng, nhà sản xuất tất nhiên hy vọng tỷ lệ bán vé phải trong trạng thái tích cực. Giữa một loạt các poster phim, số đông thường sẽ chú ý vào phần diễn viên đầu tiên, tiếp đến là thể loại. Vẫn có nhiều đạo diễn trong nước tạo dựng được uy tín bằng các sản phẩm chất lượng, mỗi khi dòng chữ “Một bộ phim của….” xuất hiện, người hâm mộ đều yên tâm và tin tưởng rằng đây sẽ là một xuất phẩm không tồi. Thế nhưng luôn có những ngoại lệ. Ngoại lệ ở đây tồn tại cũng vì tâm lý chiều theo đám đông.

Đám đông có thể hô hào phản đối, chê bai việc có quá ít diễn viên điện ảnh được đào tạo bài bản có cơ hội tỏa sáng. Tuy nhiên, họ lại không quá mặn mà khi liếc sơ poster mà không thấy nổi một cái tên quen thuộc. Dù cho biết bao lời phê bình nặng nhẹ, không phải tự nhiên mà những bộ phim gắn mác “hài nhảm” có ưu thế trong cuộc đua phòng vé. Các phim tâm lý xã hội “phi thực tế”, thể loại kinh dị mà chẳng thể dọa được bất cứ ai trong khán phòng…., vẫn có thể thu lợi nhuận khả quan, ít nhất cũng hòa vốn. Lý do là bởi thực tế chính khán giả thích điều đó. Họ có thể bỏ qua các sản phẩm độc lập, kinh phí ít, diễn viên trẻ, câu chuyện thú vị, tất cả chỉ vì “nhìn poster không thấy ai quen, chắc phim dở rồi”, hoặc “diễn viên không đẹp, phim không hay”.

Với những đạo diễn hàng đầu sẵn sàng phô diễn cá tính của họ, quan điểm và tư duy nghệ thuật đậm cái tôi, số phận của các tác phẩm ấy cũng không lạc quan hơn bao nhiêu. Dù có sự bảo chứng của những tên tuổi có chuyên môn vững chắc, nhưng cái thu về chỉ là sự lắc đầu của người xem. “Xem phim để giải trí, coi mà nặng nề khó hiểu quá hết hứng”, “phim cũng sâu sắc, nhưng thua nước ngoài, kiểu vậy khó thu hút lắm”… Các nhận định như thế cũng đủ khiến người làm điện ảnh phải cân nhắc lại, trước khi dám mạo hiểm tạo ra xu hướng mới để dẫn dắt người xem phim.

Điểm sáng tích cực bắt đầu lóe lên vào những năm gần đây. Khi mà thế hệ khán giả trẻ có sự tiếp nhận văn hóa nghệ thuật đa dạng hơn. Vốn hiểu biết và cảm thụ nghệ thuật tăng, kéo theo nhu cầu giải trí cũng sẽ sản sinh ra điều kiện nghiêm khắc hơn. Họ kiên nhẫn ủng hộ những phim Việt chất lượng, ra sức tẩy chay các tác phẩm có chất lượng tệ. Ngoài ra ảnh hưởng của một năm đầy biến động bởi dịch bệnh Covid-19 cũng tác động không nhỏ đến thói quen xem phim của số đông. Thời gian giãn cách xã hội bắt buộc lượng người truy cập mạng để xem phim trên các nền tảng trực tuyến tăng cao. Việc này vô hình trung tạo nên sự “rèn luyện” tư duy cùng gu thẩm mỹ đối với phim ảnh.

Trong thời đại mà “gu” của khán giả Việt đang thay đổi, văn minh hơn, khắt khe hơn. Vấn đề còn tồn đọng đối với điện ảnh Việt Nam là gì? Kịch bản, diễn viên hay là đạo diễn?