Tra cứu lịch chiếu và đặt vé siêu nhanh
Có người nói rằng kịch đem đến cảm giác chân thật hơn. Bởi vì được “nghe tận tai – thấy tận mắt” người kịch sỹ bằng xương bằng thịt, chứng kiến mọi hỷ - nộ - ái - ố của họ. Từ nụ cười đến giọt nước mắt, cơn thịnh nộ đến niềm hạnh phúc đều sống động tại chỗ. Trong thời khắc ấy, cả người xem lẫn người diễn đều thực sự “hiện diện” trong tình tiết của vở kịch.
Điện ảnh thì ngược lại hoàn toàn, khán giả chỉ được “quan sát” mọi diễn biến thông qua màn hình. Đôi lúc chẳng có bất cứ câu thoại nào, chỉ khung hình và âm nhạc làm “người đại diện”. Thay vì biểu lộ bằng hành động – lời nói, dù là phẫn nộ hay niềm vui thì tất cả phụ thuộc vào cơ mặt cùng ánh mắt của diễn viên. Sau ống kính, cảm xúc của họ là thứ hành động sắp đặt mang tính tuần hoàn. Tức là khi không đạt, vẫn có thể diễn lại.
Thế nhưng nếu nói kịch chỉ “mô phỏng”, còn điện ảnh mới chính là “cuộc đời” thì cũng không hẳn sai.
Rõ ràng với một sân khấu nhỏ hẹp, cảnh vật được dựng lên vốn làm từ các chất liệu cố định như kim loại hoặc gỗ. Thỉnh thoảng có vài vật trang trí nhằm thể hiện tính ước lệ, cho thấy thông điệp của vở kịch. Đấy là mô phỏng về vật chất. Diễn kịch cũng không thể nào chỉ đơn thuần dùng đôi mắt hoặc biểu cảm khuôn mặt. Bắt buộc phải cường điệu về giọng nói và cả ngôn ngữ hình thể, cốt là để biểu đạt rõ hơn cho tâm trạng nhân vật. Điều này dẫn đến hành vi có phần gượng gạo hoặc khoa trương quá mức, đấy là mô phỏng về con người.
Không bị giới hạn về không gian, điện ảnh thậm chí có thể đưa con người “vòng quanh thế giới” ngay tại rạp chiếu phim. Nếu mặt địa lý thực tế không đáp ứng được thì khái niệm kỹ xảo điện ảnh hoàn toàn đủ khả năng tái hiện hoặc tạo ra một vùng đất mới vô cùng hoàn hảo. Sự sắp đặt máy quay đem đến trải nghiệm “nhập vai” cho người xem phim. Thông qua bố trí ống kính, nội dung phim sẽ truyền tải tâm tư và ý nghĩa ẩn dụ của tác phẩm. Diễn viên có sự chuẩn bị kỹ hơn về mặt tâm lý, giúp họ không chỉ đơn thuần là “mô phỏng” động tác, lời nói trong kịch bản. Họ có thể nhập vai như thể đã “xuất hồn” để “sống” cùng nhân vật, hóa thân hoàn toàn vào vai trò được yêu cầu. Từ đây không còn tồn tại cái gọi là tài tử - minh tinh, chỉ có anh A, cô B, chú C, chị D…
Điện ảnh thời kỳ đầu vẫn chịu ảnh hưởng từ kịch nghệ. Dù là bối cảnh ở bất cứ đâu, camera vẫn đặt tĩnh để ghi hình, không khác gì góc nhìn của ghế ngồi trong sân khấu. Kỷ nguyên phim câm khiến các diễn viên phải tận dụng tối đa ngôn ngữ hình thể, phụ họa theo đó là bảng phụ đề. Điều này góp phần khiến cho diễn xuất trong điện ảnh không khác kịch là mấy.
Mãi cho đến những nhà tiên điện ảnh tiên phong trong công cuộc cách mạng, phim mới đã bắt đầu có sự đa dạng về góc máy, cận – trung – đại. Cốt truyện có thể kể bằng nhiều cách khác nhau, không theo tuyến tính thời gian. Giờ đây óc sáng tạo của con người cho phép họ tận dụng tối đa sự tưởng tượng để cho ra đời các thể loại phim khác nhau. Kinh dị giúp chuyên gia make up có dịp tỏa sáng, khoa học viễn tưởng đem đến cơ hội phát triển cho kỹ xảo – kỹ thuật dựng phim. Đặc biệt là khi hình ảnh và âm có thể cùng đồng bộ thu hình ghi lại, diễn viên điện ảnh có thể thoại dễ dàng, thậm chí khi họ im lặng, các góc quay cận sẽ giúp hiểu được nội tâm nhân vật đang như thế nào.
Vậy nếu nói một tác phẩm điện ảnh xem bị “kịch” quá, tức là khen hay chê?
Điện ảnh và kịch nghệ tưởng chừng tương đồng, nhưng vẫn có những quy tắc tách biệt rạch ròi. Một vở kịch đem tới cảm giác “nổi da gà”, người kịch sỹ trình diễn xuất sắc, dù là bi kịch hay hài kịch thì đều có thể thành công vang dội. Còn một cuốn phim, xem xong phải bật ra câu “diễn gì như đóng kịch”, “phim này làm lố quá”…, rõ ràng là thất bại.
Tuy nhiên, điện ảnh cũng được xem là phương thức phản ánh hiện thực. Một cách hiểu nào đó, phim như một xã hội thu nhỏ, trong đấy sẽ bao gồm thời sự, con người, bản sắc văn hóa, bản chất khẳng định – phủ định của sự việc. Hành vi của mỗi cá thể trong một xã hội tại đất nước nào đấy là hiện thân của tinh thần được truyền tải thông qua các nhân vật trong phim. Lối ứng xử, cách sinh hoạt và phong tục tập quán cũng là nét riêng của từng quốc gia.
Điều này dẫn đến hệ quả thành phẩm của một bộ phim điện ảnh. Từ những năm 1930 đến đầu thập niên 50, diễn viên Hollywood đóng phim như thể diễn kịch Broadway, đài từ nhấn nhá thái quá. Người Mỹ thời đấy ai ai cũng giao tiếp “kịch” như vậy à? Không hề, đấy chỉ là trên phim thôi. Có điều, trước khi Method Acting ra đời, các xuất phẩm kinh điển trong Kỷ Nguyên Vàng Hollywood vẫn có giá trị đến ngày nay. Bởi vì chúng chứa đựng tinh túy từ cái gọi là “tiên phong”, đường dây kịch bản không lỗi thời, cách dựng phim độc đáo, tư duy đạo diễn phá cách, câu chuyện chứa đựng các vấn đề đi trước thời đại… Tất cả đều thuộc phạm trù “cần có” của cái gọi là Nghệ Thuật Điện Ảnh.